Dòng thời gian Chương trình Shuttle–Mir

Bắt đầu chương trình Shuttle–Mir—phóng tàu con thoi Discovery trong sứ mệnh STS-60, chuyến bay đầu tiên của chương trình.

Bắt đầu một sự hợp tác mới (1994)

Phase One của chương trình Shuttle–Mir bắt đầu vào ngày 3 tháng 2 năm 1994 với phi vụ phóng tàu con thoi Discovery trong sứ mệnh thứ 18 của nó là STS-60. Nhiệm vụ kéo dài 8 ngày này vừa là phi vụ tàu con thoi đầu tiên trong năm đó, vừa là chuyến bay đầu tiên của một nhà du hành vũ trụ người Nga, Sergey Konstantinovich Krikalyov, trên tàu con thoi của Mỹ. Ngoài ra, sứ mệnh này cũng đánh dấu bước khởi đầu sự tăng cường hợp tác trong lĩnh vực không gian giữa hai quốc gia sau 37 năm kể từ khi Cuộc đua vào vũ trụ bắt đầu.[19] Là một phần của thỏa thuận quốc tế về chuyến bay đưa con người vào không gian, STS-60 là phi vụ thứ hai của mô-đun điều áp Spacehab và đánh dấu trọng tải thứ một trăm thuộc chương trình "Getaway Special" bay vào vũ trụ. Trọng tải chính của nhiệm vụ là Wake Shield Facility (hay WSF), một thiết bị nhằm tạo ra màng bán dẫn mới cho các bộ phận điện tử tiên tiến. WSF đã được gắn ở cuối cánh tay robot của Discovery trong suốt chuyến bay. Trong thời gian diễn ra sứ mệnh, phi hành đoàn Discovery cũng đã tiến hành nhiều thí nghiệm khác nhau trên mô-đun Spacehab trong khoang tải trọng của tàu quỹ đạo, và tham gia kết nối video âm thanh hai chiều downlink trực tiếp giữa họ và ba nhà du hành vũ trụ người Nga trên Trạm Hòa Bình, Valery Vladimirovich Polyakov, Viktor Mikhailovich AfanasyevYury Vladimirovich Usachov (đang thực hiện các chuyến bay thám hiểm LD-4 và EO-15 trên trạm).[16][20][21]

Quang cảnh Hòa Bình sau khi Atlantis ngắt ghép nối vào cuối sứ mệnh STS-71

Người Mỹ đặt chân lên Trạm Hòa Bình (1995)

Phi vụ phóng tàu con thoi Discovery vào ngày 3 tháng 2 đã mở đầu cho năm 1995. Sứ mệnh STS-63 này của Discovery là phi vụ tàu con thoi thứ hai trong chương trình, đồng thời là chuyến bay đầu tiên của tàu con thoi với một nữ phi công (mang tên Eileen Collins). Được xem là sứ mệnh "cận Hòa Bình", chuyến bay kéo dài 8 ngày này đã chứng kiến ​​cuộc hẹn đầu tiên của tàu con thoi với Hòa Bình khi nhà du hành vũ trụ người Nga Vladimir Georgiyevich Titov và phần còn lại của phi hành đoàn Discovery tiếp cận trạm trong phạm vi 11 m. Sau cuộc gặp gỡ, Collins đã thực hiện một chuyến bay vòng quanh trạm. Sứ mệnh này đóng vai trò như một buổi diễn tập trước cho nhiệm vụ cập bến đầu tiên trong chương trình là STS-71, đồng thời cũng tiến hành thử nghiệm các kỹ thuật và thiết bị sẽ được sử dụng trong những nhiệm vụ ghép nối tiếp theo.[20][22][23]

Năm tuần sau chuyến bay của Discovery, phi vụ phóng Soyuz TM-21 vào ngày 14 tháng 3 đã đưa đoàn thám hiểm EO-18 tới Hòa Bình. Đội bay bao gồm các nhà du hành vũ trụ người Nga Vladimir Nikolayevich DezhurovGennady Mikhailovich Strekalov, cùng với phi hành gia NASA Norman Thagard, người Mỹ đầu tiên bay vào vũ trụ trên tàu Soyuz. Trong chuyến thám hiểm kéo dài 115 ngày của họ, mô-đun khoa học Spektr (đóng vai trò là không gian sinh sống và làm việc cho các phi hành gia Mỹ) đã được phóng trên một tên lửa Proton và cập bến Hòa Bình. Spektr mang theo hơn 1.500 pound (680 kg) thiết bị nghiên cứu từ Mỹ và các quốc gia khác. Thành viên của đoàn thám hiểm đã quay trở lại Trái Đất trên tàu con thoi Atlantis sau lần ghép nối đầu tiên với trạm vũ trụ trong sứ mệnh STS-71.[3][9]

Mir Docking Module, được đặt trong khoang tải trọng của Atlantis trong sứ mệnh STS-74, chuẩn bị ghép nối với Kristall

Được phóng từ KSC vào ngày 27 tháng 6, mục tiêu chính của STS-71 là triệu tập tàu con thoi Atlantis đến điểm hẹn và thực hiện lần ghép nối đầu tiên giữa tàu con thoi của Mỹ với Trạm Hòa Bình. Ngày 29 tháng 6, Atlantis ghép nối thành công với Hòa Bình, trở thành tàu vũ trụ đầu tiên của Mỹ cập bến với một tàu vũ trụ Nga kể từ Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz năm 1975.[24] Atlantis đã đưa đến các phi hành gia Anatoly Yakovlevich SolovyevNikolai Mikhailovich Budarin để lập nên phi đội thám hiểm EO-19, đồng thời đưa về phi hành gia người Mỹ Norman Thagard cũng như các phi hành gia người Nga thuộc đoàn thám hiểm EO-18 là Vladimir Nikolayevich Dezhurov và Gennady Mikhailovich Strekalov. Atlantis cũng thực hiện các cuộc điều tra chung Mỹ-Nga về khoa học đời sống trên quỹ đạo trong mô-đun Spacelab và thực hiện tiếp tế hậu cần cho trạm.[20][25][26]

Chuyến bay tàu con thoi cuối cùng của năm 1995 là STS-74, được bắt đầu bằng phi vụ phóng tàu Atlantis vào ngày 12 tháng 11 và sau đó vận chuyển Docking Module do Nga chế tạo đến Hòa Bình, cùng với một cặp mảng quang điện mới và các nâng cấp phần cứng khác cho trạm. Docking Module được thiết kế để mang lại nhiều khoảng trống hơn cho tàu con thoi nhằm ngăn chặn mọi va chạm với các mảng quang điện của Hòa Bình trong quá trình ghép nối, một sự cố từng xảy ra và đã được khắc phục trong sứ mệnh STS-71 bằng cách di dời mô-đun Kristall đến vị trí khác trên trạm. Mô-đun này được gắn vào cổng ghép nối của Kristall, giúp phi hành gia không cần phải tiếp tục thực hiện quy trình này trong các nhiệm vụ tiếp theo. Trong suốt chuyến bay, gần 1.000 pound (450 kg) nước đã được đưa đến Hòa Bình và các mẫu thí nghiệm bao gồm máu, nước tiểu, nước bọt đã được chuyển sang Atlantis để mang về Trái Đất.[20][27][28][29]

Ăng-ten Travers RADAR trên mô-đun mới phóng Priroda trong sứ mệnh STS-79

Mô-đun Priroda (1996)

Sự hiện diện liên tục của Hoa Kỳ trên Hòa Bình bắt đầu từ năm 1996 với phi vụ phóng tàu Atlantis vào ngày 22 tháng 3 trong sứ mệnh STS-76, khi phi hành gia Shannon Lucid của chuyến Increment thứ hai được đưa lên trạm. STS-76 là nhiệm vụ ghép nối thứ ba tới Hòa Bình, sứ mệnh này cũng thể hiện khả năng hậu cần thông qua việc triển khai mô-đun Spacehab và đặt các kiện hàng thí nghiệm lên mô-đun ghép nối của Hòa Bình, đánh dấu chuyến đi bộ ngoài không gian đầu tiên diễn ra xung quanh các phương tiện đã cập bến. Những chuyến đi bộ ngoài không gian được thực hiện từ cabin phi hành đoàn của Atlantis đã mang lại nhiều kinh nghiệm quý báu đối với các phi hành gia để chuẩn bị cho những sứ mệnh ghép nối sau này trên Trạm vũ trụ Quốc tế.[30]

Lucid đã trở thành người phụ nữ Mỹ đầu tiên sinh sống trên trạm, và sau khi gia hạn Increment thêm sáu tuần do những vấn đề với các tầng đẩy tăng cường nhiên liệu rắn của tàu con thoi, sứ mệnh kéo dài 188 ngày của bà đã lập kỷ lục chuyến bay đơn vào vũ trụ của Hoa Kỳ. Trong thời gian Lucid ở trên Hòa Bình, mô-đun Priroda chứa khoảng 2.200 pound (1.000 kg) phần cứng khoa học của Hoa Kỳ đã ghép nối với trạm. Lucid sử dụng cả Priroda và Spektr để thực hiện 28 thí nghiệm khoa học khác nhau cũng như làm nơi sinh sống.[20][31]

Tàu con thoi Atlantis ghép nối với Hòa Bình trong sứ mệnh STS-81. Khoang phi hành đoàn, mũi và một phần khoang tải trọng của Atlantis có thể được nhìn thấy ở phía sau mô-đun Kristall và các Docking Module của Hòa Bình.

Thời gian lưu trú của bà trên Hòa Bình kết thúc với chuyến bay của Atlantis, được phóng vào ngày 16 tháng 9 trong sứ mệnh STS-79. Đây là nhiệm vụ tàu con thoi đầu tiên mang theo mô-đun kép Spacehab. Hơn 4.000 pound (1.800 kg) hàng tiếp tế đã được chuyển đến Hòa Bình, bao gồm cả nước do pin nhiên liệu của Atlantis tạo ra, ngoài ra còn có những thí nghiệm bao gồm nghiên cứu về chất siêu dẫn, phát triển sụn và các nghiên cứu sinh học khác. Khoảng 2.000 pound (910 kg) mẫu thử nghiệm và thiết bị cũng đã được chuyển trở lại từ Hòa Bình về Atlantis, đánh dấu tổng lượng chuyển giao lớn nhất từ ​​trước đến nay.[32]

Lần cập bến thứ tư này cũng chứng kiến ​​​​John Blaha chuyển đến Hòa Bình để đảm nhận vị trí phi hành gia Increment thường trú. Việc ông ở lại trạm đã giúp cải thiện hoạt động ở một số lĩnh vực, bao gồm thủ tục chuyển giao cho tàu con thoi đã cập bến, thủ tục "bàn giao" cho phi hành đoàn Mỹ dài hạn, và các liên lạc radio nghiệp dư.

Hai chuyến đi bộ ngoài không gian đã được tiến hành trong thời gian Blaha ở trên trạm. Mục tiêu của họ là nhằm loại bỏ các đầu nối điện lực khỏi mảng quang điện 12 năm tuổi trên khối cơ sở và kết nối lại dây cáp với các mảng quang điện mới có hiệu suất cao hơn. Tổng cộng, ông đã dành bốn tháng cùng phi hành đoàn Mir-22 tiến hành nghiên cứu khoa học vật liệu, cơ học chất lưukhoa học đời sống trước khi quay trở lại Trái Đất vào năm tiếp theo trên tàu Atlantis trong sứ mệnh STS-81.[20][33]

Hỏa hoạn và va chạm (1997)

Một tấm bảng trên Hòa Bình bị cháy đen sau vụ hỏa hoạn

Năm 1997, sứ mệnh STS-81 được triển khai đã thay thế phi hành gia Increment John Blaha sau 118 ngày ở trên Hòa Bình bằng Jerry Linenger. Trong lần cập bến tàu con thoi thứ năm này, phi hành đoàn Atlantis đã chuyển hàng tiếp tế đến trạm và đưa về Trái Đất những cây đầu tiên hoàn thành vòng đời trong không gian; chúng đều đến từ một vụ lúa mì do Shannon Lucid gieo trồng. Trong năm ngày hoạt động phối hợp, các phi đội đã chuyển gần 6.000 pound (2.700 kg) hậu cần đến Hòa Bình và mang 2.400 pound (1.100 kg) nguyên liệu trở lại Atlantis (nhiều nguyên liệu được chuyển giao nhất giữa hai tàu vũ trụ tính đến thời điểm đó).[34]

Phi hành đoàn STS-81 cũng thử nghiệm Treadmill with Vibration Isolation Stabilization (tạm dịch: Máy chạy bộ với Hệ thống Cách ly và Ổn định Rung động, viết tắt là TVIS) của tàu con thoi, được thiết kế để sử dụng trên mô-đun Zvezda của Trạm vũ trụ Quốc tế. Các động cơ đẩy phản lực vernier nhỏ của tàu con thoi đã được khai hỏa trong các hoạt động phối hợp để thu thập dữ liệu kỹ thuật nhằm điều chỉnh lại quỹ đạo cho ISS. Sau khi ngắt ghép nối, Atlantis thực hiện một chuyến bay vòng quanh Hòa Bình, để lại Linenger ở trên trạm.[20][34]

Trong thời gian thực hiện Increment, Linenger trở thành người Mỹ đầu tiên đi bộ trong không gian từ một trạm vũ trụ nước ngoài và là người đầu tiên thử nghiệm bộ đồ du hành Orlan-M cùng với nhà du hành vũ trụ người Nga Vasily Vasiliyevich Tsibliyev. Cả ba thành viên của đoàn thám hiểm EO-23 đã thực hiện một chuyến "bay vòng quanh" trên tàu vũ trụ Soyuz: đầu tiên họ ngắt ghép nối khỏi một cổng của trạm, sau đó bay đến và ghép nối lại khoang tàu ở một địa điểm khác theo cách thủ công. Chuyến bay này giúp Linenger trở thành người Mỹ đầu tiên rời trạm vũ trụ trên hai phi thuyền khác nhau (tàu con thoi và Soyuz).

Hình ảnh về thiệt hại từ vụ va chạm với Tiến bộ M-34 do Atlantis chụp trong chuyến bay STS-86

Linenger cùng với những đồng đội người Nga Vasily Vasiliyevich Tsibliyev và Aleksandr Ivanovich Lazutkin đã gặp phải một số khó khăn trong sứ mệnh, bao gồm vụ hỏa hoạn nghiêm trọng nhất trên phi thuyền quay quanh quỹ đạo (do thiết bị tạo oxy dự phòng gây ra), hỏng hóc của nhiều hệ thống trên tàu, suýt va chạm với tàu chở hàng tiếp tế Tiến bộ trong quá trình thử nghiệm hệ thống ghép nối thủ công đường dài, và tình trạng mất toàn bộ nguồn điện của trạm. Sự cố mất điện còn gây mất kiểm soát định hướng, dẫn đến tình trạng "nhào lộn" không kiểm soát trong không gian.[3][9][10][20]

Phi hành gia NASA tiếp theo ở lại Hòa Bình là Michael Foale. Foale và chuyên gia sứ mệnh người Nga Yelena Vladimirovna Kondakova lên Trạm Hòa Bình bằng tàu Atlantis trong sứ mệnh STS-84. Phi hành đoàn STS-84 đã di chuyển 249 vật phẩm giữa hai phi thuyền cùng với nước, mẫu thí nghiệm, hàng tiếp tế và phần cứng. Một trong những món đồ đầu tiên được chuyển đến Hòa Bình là thiết bị tạo oxy Elektron. Atlantis đã bị dừng ba lần khi đang lùi lại trong quá trình ngắt ghép nối vào ngày 21 tháng 5, mục đích là để thu thập dữ liệu từ một thiết bị cảm biến của châu Âu được thiết kế cho cuộc hẹn trong tương lai giữa Tàu vận tải tự hành (ATV) của ESA với Trạm vũ trụ Quốc tế.[20][35]

Các mảng quang điện bị hư hỏng trên mô-đun Spektr của Hòa Bình sau vụ va chạm với tàu vũ trụ không người lái Tiến bộ vào tháng 9 năm 1997

Chuyến bay Increment của Foale vẫn diễn ra khá bình thường cho đến ngày 25 tháng 6, khi một tàu tiếp tế va chạm với các mảng quang điện trên mô-đun Spektr trong cuộc thử nghiệm thứ hai của hệ thống ghép nối thủ công TORU trên tàu Tiến bộ. Lớp vỏ bên ngoài của mô-đun bị va đập và chọc thủng khiến Trạm Hòa Bình mất áp suất. Đây là lần giảm áp suất trên quỹ đạo đầu tiên trong lịch sử các chuyến bay vũ trụ. Phi hành đoàn đã nhanh chóng cắt dây cáp dẫn đến mô-đun và đóng cửa sập của Spektr để tránh việc phải rời trạm trên "xuồng cứu sinh"[lower-alpha 2] Soyuz. Những nỗ lực của họ đã giúp ổn định áp suất không khí trên trạm, trong khi áp suất ở Spektr, nơi chứa nhiều thí nghiệm và đồ dùng cá nhân của Foale, bị giảm xuống mức chân không. May mắn là thực phẩm, nước uống và vật dụng quan trọng đã được cất trữ an toàn trong các mô-đun khác. Ngoài ra, nỗ lực cứu vớt và lập lại kế hoạch của Foale cũng như cộng đồng khoa học đã giúp giảm thiểu việc mất mát dữ liệu và khả năng thực hiện nghiên cứu của trạm vũ trụ.[9][20]

Trong nỗ lực khôi phục một số hệ thống và nguồn điện bị mất sau khi cô lập Spektr cũng như cố gắng xác định vị trí rò rỉ, chỉ huy mới của Hòa Bình Anatoly Yakovlevich Solovyev và kỹ sư bay Pavel Vladimirovich Vinogradov đã cùng thực hiện một hoạt động trục vớt. Họ bước vào mô-đun rỗng trong một chuyến đi bộ ngoài không gian được gọi là "IVA", kiểm tra tình trạng phần cứng và chạy dây cáp qua một cửa sập đặc biệt từ các hệ thống của Spektr đến phần còn lại của trạm. Sau những cuộc khảo sát đầu tiên này, Foale và Solovyev đã tiến hành chuyến EVA[lower-alpha 3] kéo dài 6 giờ trên bề mặt Spektr để kiểm tra hỏng hóc của mô-đun.[20][36]

Qua những sự cố trên, Quốc hội Hoa Kỳ và NASA đã cân nhắc việc từ bỏ dự án do lo ngại cho sự an toàn của các phi hành gia, nhưng Trưởng quản lý NASA Daniel Goldin vẫn quyết định tiếp tục chương trình.[10] Chuyến bay tiếp theo đến Hòa Bình, với tên gọi STS-86, đã đưa phi hành gia Increment David Wolf lên trạm vũ trụ.

Hình ảnh Hòa Bình nhìn từ cửa sổ của Atlantis, cho thấy một số mô-đun của trạm và tàu Soyuz đã ghép nối

STS-86 là sứ mệnh ghép nối Shuttle–Mir thứ bảy của dự án, và cũng là lần ghép nối cuối cùng của tàu con thoi với Hòa Bình trong năm 1997. Khi đang bay trên Atlantis, các phi hành gia Titov và Parazynski đã tiến hành hoạt động chung bên ngoài tàu vũ trụ đầu tiên giữa Mỹ và Nga trong một sứ mệnh tàu con thoi, và hoạt động đầu tiên mà một người Nga mặc bộ đồ du hành của Mỹ. Trong chuyến đi bộ ngoài không gian kéo dài 5 giờ, bộ đôi này đã gắn một Solar Array Cap nặng 121 pound (55 kg) vào Docking Module để các thành viên phi đội khác có thể bịt ​​kín chỗ rò rỉ trên thân mô-đun Spektr trong tương lai. Nhiệm vụ đã đưa Foale trở lại Trái Đất cùng với các mẫu vật, phần cứng và máy tạo oxy Elektron cũ, đồng thời thả Wolf xuống trạm để sẵn sàng cho chuyến bay Increment kéo dài 128 ngày của ông. Theo kế hoạch ban đầu, Wolf sẽ là phi hành gia người Mỹ cuối cùng trên Trạm Hòa Bình, nhưng sau đó ông lại được chọn để đảm nhiệm chuyến bay Increment tiếp theo thay cho phi hành gia Wendy Lawrence. Lawrence được coi là không đủ điều kiện để bay do sự thay đổi trong các yêu cầu của Nga sau vụ va chạm với tàu vận tải Tiến bộ. Những quy định mới yêu cầu tất cả thành viên phi hành đoàn của Hòa Bình phải được đào tạo và sẵn sàng cho các chuyến đi bộ ngoài không gian, nhưng bộ đồ du hành vũ trụ của Nga đã không được chuẩn bị kịp thời cho Lawrence trước thời gian phóng.[20][37]

Tàu con thoi Discovery hạ cánh trong sứ mệnh STS-91 vào ngày 12 tháng 6 năm 1998, khép lại chương trình Shuttle–Mir.

Phase One kết thúc (1998)

Năm cuối cùng của Phase One bắt đầu với phi vụ phóng tàu con thoi Endeavour trong nhiệm vụ STS-89. Sứ mệnh này đã đưa nhà du hành vũ trụ người Nga Salizhan Shakirovich Sharipov lên Hòa Bình và thay thế David Wolf bằng Andy Thomas sau chuyến bay kéo dài 119 ngày của ông.[20][38]

Trong chuyến Increment cuối cùng của chương trình, Thomas đã thực hiện 27 nghiên cứu khoa học về các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, khoa học Trái Đất, khoa học đời sống con người, nghiên cứu vi trọng lực, và giảm thiểu rủi ro cho ISS. Thời gian ông lưu lại trên Hòa Bình được coi là suôn sẻ nhất trong toàn bộ chương trình Phase One, nổi bật với "Letters from the Outpost" (tạm dịch: "Những bức thư từ Tiền đồn") do Thomas viết mỗi tuần cho người thân và bạn bè ở Trái Đất. Lần Increment này cũng đã vượt qua hai cột mốc quan trọng về thời lượng của chuyến bay vũ trụ đối với phi hành gia Mỹ — một là 815 ngày liên tiếp trong không gian kể từ khi Shannon Lucid được phóng lên trong sứ mệnh STS-76 vào tháng 3 năm 1996, và hai là 907 ngày lưu lại trên Hòa Bình kể từ chuyến đi của Norman Thagard tới trạm vũ trụ này vào tháng 3 năm 1995.[20][39]

Thomas được đưa trở lại Trái Đất trong nhiệm vụ Shuttle–Mir cuối cùng là STS-91. Sứ mệnh này đã khép lại Phase One, với việc các phi hành đoàn EO-25 và STS-91 vận chuyển nước đến Hòa Bình và trao đổi gần 4.700 pound (2.100 kg) hàng hóa thí nghiệm cũng như đồ tiếp tế giữa hai tàu vũ trụ. Những thí nghiệm dài hạn của Mỹ trên Trạm Hòa Bình cũng được chuyển sang Discovery. Các cửa sập đóng lại để tháo dỡ lúc 9:07 EDT ngày 8 tháng 6, và tàu vũ trụ đã tách ra lúc 12:01 EDT chiều hôm đó.[20][40][41]

Trạm vũ trụ Quốc tế, Phase Two của chương trình ISS

Phase Two và Phase Three: ISS (1998–nay)

Chương trình Phase One kết thúc với cú hạ cánh của tàu con thoi Discovery vào ngày 12 tháng 6 năm 1998. Các kỹ thuật và thiết bị được phát triển trong chương trình đã hỗ trợ hoàn thiện Phase Two, hay quá trình lắp ráp ban đầu của Trạm vũ trụ Quốc tế (ISS). Việc mô-đun phòng thí nghiệm Destiny cập bến vào năm 2001 đã đánh dấu sự kết thúc của Phase Two và bắt đầu chuyển sang Phase Three, giai đoạn trang bị cuối cùng cho trạm. Chương trình này cũng đã được hoàn thành vào năm 2012.[42]

Năm 2015, việc cấu hình lại phân đoạn của Hoa Kỳ đã hoàn tất, cho phép các cổng ghép nối của nó có thể tiếp nhận những phương tiện thương mại có người lái do NASA tài trợ, dự kiến ​​sẽ bắt đầu ghé thăm ISS vào năm 2018.[43]

Tính đến tháng 6 năm 2015, thể tích được điều áp của ISS là 915 mét khối (32.300 ft khối), tổng chiều dài các mô-đun điều áp là 51 mét (167 ft), cộng với một cấu trúc giàn lớn trải dài 109 mét (358 ft) khiến trạm này trở thành tàu vũ trụ lớn nhất từ ​​​​trước đến nay từng được lắp ráp.[44] ISS khi hoàn thành bao gồm năm phòng thí nghiệm và có thể hỗ trợ sáu thành viên phi hành đoàn. Với hơn 332 mét khối (11.700 ft khối) thể tích có thể ở được và khối lượng 400.000 kilôgam (880.000 lb), Trạm vũ trụ Quốc tế hoàn chỉnh có độ lớn gần gấp đôi tổng kích thước khi tàu con thoi ghép nối với Hòa Bình.[44]

Phase Two và Phase Three được tiến hành nhằm mục đích tiếp tục sự hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học về không gian và không trọng lực, đặc biệt là về các chuyến bay vũ trụ thời gian dài. Mùa xuân năm 2015, Roscosmos, NASACơ quan Vũ trụ Canada (CSA) đã đồng ý gia hạn sứ mệnh của ISS từ năm 2020 lên năm 2024.[45]

Năm 2018, thời hạn của nhiệm vụ được kéo dài đến năm 2030.[46] Kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp thông tin đáng kể cho những chuyến thám hiểm dài ngày tới Mặt Trăng và các chuyến bay tới Sao Hỏa.[47]

Sau khi Hòa Bình rời khỏi quỹ đạo một cách có chủ ý vào ngày 23 tháng 3 năm 2001, ISS đã trở thành trạm không gian duy nhất còn hoạt động trên quỹ đạo Trái Đất.[48] Nó vẫn giữ được vị thế độc nhất đó cho đến phi vụ phóng phòng thí nghiệm vũ trụ Thiên Cung 1 của Trung Quốc vào ngày 29 tháng 9 năm 2011.[49]

Di sản của Hòa Bình vẫn còn ở đấy, trên ISS. Dự án này đã tập hợp năm cơ quan vũ trụ lại với nhau vì mục đích khám phá và cho phép các cơ quan vũ trụ đó chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo vào không gian, tới Mặt Trăng, Sao Hỏa và hơn thế nữa.[50]

Danh sách đầy đủ các sứ mệnh Shuttle–Mir

Những dòng in đậm là tên của các phi hành gia tham gia chuyến bay Increment.

Sứ mệnhNgày phóngTàu con thoiPhù hiệuPhi hành đoànGhi chú
STS-603 tháng 2 năm 1994Discovery Charles Bolden | Kenneth Reightler | N. Jan Davis | Ronald Sega | Franklin Chang Díaz | Sergey Krikalyov

Sứ mệnh Shuttle–Mir đầu tiên | Phi hành gia người Nga đầu tiên trên tàu vũ trụ Mỹ | Triển khai Wake Shield Facility | Vận chuyển lên mô-đun đơn Spacehab

STS-633 tháng 2 năm 1995Discovery James Wetherbee | Eileen Collins | Bernard Harris | C. Michael Foale | Janice Voss | Vladimir TitovCuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tàu con thoi với Hòa Bình
Soyuz TM-2114 tháng 3 năm 1995 Vladimir Dezhurov | Gennady Strekalov | Norman ThagardPhi hành gia người Mỹ đầu tiên trên tàu vũ trụ Nga | Chở lên phi hành đoàn Mir EO-18 | Đưa Norman Thagard lên lưu lại lâu dài
STS-7127 tháng 6 năm 1995Atlantis Robert Gibson | Charles Precourt | Ellen Baker | Gregory Harbaugh | Bonnie Dunbar | Anatoly Solovyev | Nikolai BudarinLần ghép nối đầu tiên giữa tàu con thoi với Trạm Hòa Bình | Chở lên phi hành đoàn Mir EO-19 | Đưa xuống phi hành đoàn Mir EO-18
STS-7412 tháng 11 năm 1995Atlantis Kenneth Cameron | James Halsell | Chris Hadfield | Jerry Ross | William S. McArthurVận chuyển lên Mir Docking Module | Hadfield trở thành người Canada đầu tiên và duy nhất bay đến Hòa Bình
STS-7622 tháng 3 năm 1996Atlantis Kevin Chilton | Richard Searfoss | Ronald Sega | Michael Clifford | Linda Godwin | Shannon LucidĐưa Shannon Lucid lên lưu lại lâu dài | Vận chuyển lên mô-đun đơn Spacehab
STS-7916 tháng 9 năm 1996Atlantis William Readdy | Terrence Wilcutt | Jay Apt | Thomas Akers | Carl Walz | John BlahaChuyến bay đầu tiên của mô-đun kép Spacehab | Đưa John Blaha lên lưu lại lâu dài | Đưa Shannon Lucid trở về Trái Đất sau chuyến Increment
STS-8112 tháng 1 năm 1997Atlantis Michael Baker | Brent Jett | Peter Wisoff | John Grunsfeld | Marsha Ivins | Jerry LinengerĐưa Jerry Linenger lên lưu lại lâu dài | Đưa John Blaha trở về Trái Đất sau chuyến Increment
STS-8415 tháng 5 năm 1997Atlantis Charles Precourt | Eileen Collins | Jean-François Clervoy | Carlos Noriega | Edward Lu | Yelena Kondakova | C. Michael FoaleĐưa Michael Foale lên lưu lại lâu dài | Đưa Jerry Linenger trở về Trái Đất sau chuyến Increment
STS-8626 tháng 9 năm 1997Atlantis James Wetherbee | Michael Bloomfield | Vladimir Titov | Scott Parazynski | Jean-Loup Chrétien | Wendy Lawrence | David WolfVladimir Titov trở thành phi hành gia người Nga đầu tiên sử dụng bộ đồ du hành EMU | Đưa David Wolf lên lưu lại lâu dài | Đưa Michael Foale trở về Trái Đất sau chuyến Increment
STS-8931 tháng 1 năm 1998Endeavour Terrence Wilcutt | Joe Edwards | James F. Reilly | Michael Anderson | Bonnie Dunbar | Salizhan Sharipov | Andrew ThomasĐưa Andrew Thomas lên lưu lại lâu dài | Đưa David Wolf trở về Trái Đất sau chuyến Increment
STS-912 tháng 6 năm 1998Discovery Charles Precourt | Dominic Pudwill Gorie | Franklin Chang Díaz | Wendy Lawrence | Janet Kavandi | Valery RyuminSứ mệnh Shuttle–Mir cuối cùng | Đưa Andrew Thomas trở về Trái Đất sau chuyến Increment

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chương trình Shuttle–Mir https://web.archive.org/web/20011116160227/http://... https://web.archive.org/web/20230516110009/https:/... https://web.archive.org/web/20110721083656/http://... https://web.archive.org/web/20011116155733/http://... https://web.archive.org/web/20011113225550/http://... https://web.archive.org/web/20041117163319/http://... https://web.archive.org/web/20090907191412/http://... https://web.archive.org/web/20181224003836/https:/... https://web.archive.org/web/20190523041156/https:/... https://web.archive.org/web/20091003032520/http://...